Thứ Sáu, 20 tháng 1, 2017

2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn là các phương pháp trực tiếp tác động vào đối tượng có trong thực tiễn để làm bộc lộ bản chất và quy luật vận động của đối tượng đó, giúp người nghiên cứu thu thập thông tin hoặc làm nảy sinh các ý tưởng nghiên cứu và đề xuất sáng tạo.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm các phương pháp cụ thể như sau:
2a. Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp tri giác có mục đích, có kế hoạch một sự kiện, hiện tượng, quá trình (hay hành vi cử chỉ của con người) trong những hoàn cảnh tự nhiên khác nhau nhằm thu thập những số liệu, sự kiện cụ thể đặc trưng cho quá trình diễn biến của sự kiện, hiện tượng đó.
– Ý nghĩa của phương pháp là: Quan sát là phương thức cơ bản để nhận thứcsự vật. Quan sát sử dụng một trong hai trường hợp: phát hiện vấn đề nghiên cứu: đặt giả thuyết kiểm chứng giả thuyết. Quan sát đem lại cho người nghiên cứu những tài liệu cụ thể, cảm tính trực quan, song có ý nghĩa khoa học rất lớn, đem lại cho khoa học những giá trị thực sự.
Ví dụ:
+ Pavlôv: Nêu rõ khẩu hiệu hành động trong nghiên cứu khoa học “Quan sát,quan sát và quan sát…” nhờ có quan sát mà Pavlôv đã xây dựng được học thuyết “Phản xạ có điều kiện”.
+ Niutơn: Quan sát hiện tượng quả táo rơi, khái quát và xây dựng nên: “Định luật vạn vật hấp dẫn”.
+ Galilê: Quan sát dao động của chiếc đèn lồng trong nhà thờ từ lúc bắt đầu đến lúc tắt, đã khái quát và nêu ra định luật chuyển động của con lắc đơn với chu kỳ: T = 2Π
+ Nhờ quan sát chuyển động Braonơ đã xây dựng nên thuyết phân tử – nguyên tử (phân tử chuyển động không ngừng và giữa chúng có khoảng cách)………
– Các loại quan sát:
+ Theo dấu hiệu về mối liên hệ giữa người nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu có thể có các loại quan sát: trực tiếp, gián tiếp, công khai, kín đáo, có tham dự,không tham dự (chỉ đóng vai trò ghi chép).
+ Theo dấu hiệu không gian, thời gian, thì có các loại quan sát: liên tục, gián đoạn, theo đề tài tổng hợp, theo chuyên đề.
+ Theo mục đích thì có các loại quan sát:
Quan sát khía cạnh, toàn diện.
Quan sát có bố trí (trong phòng thí nghiệm)
Quan sát phát hiện, kiểm nghiệm .v.v….
+ Hoặc nếu theo mục đích xử lý thông tin thì có: quan sát mô tả, quan sát phân tích…
– Những yêu cầu của quan sát:
+ Xác định rõ đối tượng quan sát. Quan sát phải được tiến hành trong điều kiện tự nhiên của hoạt động: người được quan sát không biết mình đang bị quan sát, người quan sát không nên can thiệp vào hoạt động tự nhiên và thay đổi hành vi của đối tượng (nếu là con người), người quan sát phải tự mình tham gia vào hoạt động (lao động, học tập, vui chơi…) cùng với người được quan sát (cùng tham gia) để đảm bảo tính tự nhiên của hiện tượng, quá trình nghiên cứu.
+ Xác định rõ ràng mục đích, nhiệm vụ quan sát, từ đó phải xây dựng kế hoạch quan sát trong suốt quá trình nghiên cứu và chương trình của từng buổi quan sát. Điều quan trọng là xác định quan sát toàn bộ hay chọn lọc, từ đó mới ghi lại tấtcả cái gì mắt thấy tai nghe hay một mặt nào đó. Không có chương trình, kế hoạch thì tài liệu thu thập được khó tin cậy, không loại trừ được các nhân tố ngẫu nhiên.
+ Phải ghi lại kết quả (biên bản) quan sát: ghi lại sự kiện, điều kiện, hoàn cảnh diễn ra sự kiện. Chỉ có ghi lại mới đảm bảo được tính lâu dài và có hệ thống: nhờ đó mới thiết lập được mối quan hệ, liên hệ bản chất điển hình của những biểu hiện của hiện tượng, sự kiện hay tâm lý khác nhau, có thể ghi lại bằng máy ảnh, camera, quay phim, ghi âm, hay bằng tốc ký, biên bản quan sát.v.v…
– Quan sát những biến dạng:
+ Phương pháp phân tích các sản phẩm hoạt động: Trường hợp nghiên cứu đối tượng (là người) chỉ thông qua sản phẩm của nó…. Thực chất thì chính các quá trình tâm lý được “vật hóa” trong các sản phẩm hoạt động – đó là đối tượng nghiên cứu (Ví dụ: nghiên cứu tâm lý trẻ em thông qua bức tranh em vẽ, bài thơ do em làm, bài tập do em thể hiện……)
+ Phương pháp khái quát hóa các nhận xét độc lập (phương pháp nhận định độc lập) cũng là dòng họ của quan sát, vì các nhận định độc lập được xây dựng từ quan sát trong các hiện tượng khác nhau (ví dụ: quan sát trực tiếp học sinh – sinh viên trong giờ học khi dự giờ để tìm hiểu phong cách, thái độ học tập, hứng thú đối với môn học và tích cực học tập của học sinh). Khái quát nhận xét riêng của từng giáo viên về một học sinh để nghiên cứu đặc điểm nhân cách của em đó.
– Quan sát có ưu điểm là giữ được tính tự nhiên (khách quan của các sự kiện,hiện tượng và biểu hiện tâm lý con người, cung cấp số liệu sống động, cụ thể, phong phú, quan sát được thực hiện khá đơn giản, không tốn kém. Tuy nhiên, nhược điểm cơ bản của quan sát là: người quan sát đóng vai trò thụ động, phải chờ đợi các hiện tượng diễn ra, không chủ động làm chúng diễn ra theo ý muốn được, khó khăn trong việc đánh giá sự tồn tại của những điều kiện nảy sinh các hiện tượng, sự kiện và do đó khó tách các mối liên hệ nhân quả.
Tóm lại, quan sát là phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng, cần phải phối hợp với các phương pháp khác để đạt tới trình độ nhận thức bản chất bên trong của đối tượng.
Nguồn: http://phuongphapnghiencuukhoahoc.com/phuong-phap-quan-sat/

2b. Phương pháp điều tra
Điều tra là phương pháp dùng những câu hỏi (hoặc bài toán) nhất loạt đặt ra cho một số lớn người nhằm thu được số những ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó.
– Điều tra là phương pháp khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện rộng nhằm phát hiện những quy luật phân bố, trình độ phát triển, những đặc điểm về mặt định tính và định lượng của các đối tượng cần nghiên cứu. Các tài liệu điều tra được là những thông tin quan trọng về đối tượng cần cho quá trình nghiên cứu và là căn cứ quan trọng để đề xuất những giải pháp khoa học hay giải pháp thực tiễn. Có hai loại điều tra: điều tra cơ bản và điều tra xã hội học.
(1)  Điều tra cơ bản:
(2)  Là khảo sát sự có mặt của đối tượng trên một diện rộng để nghiên cứu các quy luật phân bố cũng như các đặc điểm về mặt định tính và định lượng. Ví dụ: điều tra địa chất, điều tra dân số, điều tra trình độ văn hóa, điều tra chỉ số thông minh (IQ) của trẻ em….
Các bước của điều tra cơ bản thường được tiến hành như sau:
• Xây dựng kế hoạch điều tra gồm: mục đích, đối tượng, địa bàn, nhân lực, kinh phí…
• Xây dựng các mẫu phiếu điều tra với các thông số, các chỉ tiêu cần làm sáng tỏ.
• Chọn mẫu điều tra đại diện cho số đông, chú ý tới tất cả đặc trưng của đối tượng và chú ý đến: chi phí điều tra rẻ, thời gian có thể rút ngắn, nhân lực điều tra không quá đông, có thể kiểm soát tốt mọi khâu điều tra, dự tính được những diễn biến của quá trình điều tra và các kết quả nghiên cứu đúng mục đích.
Có hai kỹ thuật chọn mẫu:
* Chọn mẫu xác suất là chọn mẫu ngẫu nhiên, đơn giản bằng cách lẫy mẫu theo hệ thống, từng lớp, từng nhóm hay theo từng giai đoạn thời gian.
* Chọn mẫu chủ định là chọn mẫu theo địa chỉ tiêu cụ thể phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Về kích thước mẫu phải tính toán chi li cho phù hợp với chiến lược điều tra và phạm vi đề tài.
Xử lý tài liệu: Các tài liệu thu được bằng điều tra có thể được phân loại bằng phương pháp thủ công hay xử lý bằng công thức toán học thống kê và máy tính cho ta kết quả khách quan. Khi kiểm tra kết quả nghiên cứu, có thể dùng cách lặp lại điều tra thay đổi địa điểm, thời gian, thay đổi người điều tra hoặc sử dụng các phương pháp nghiên cứu hỗ trợ khác.
(2) Điều tra xã hội học: là điều tra quan điểm, thái độ của quần chúng về một sự kiện chính trị, xã hội, hiện tượng văn hóa, thị hiếu …
Ví dụ: điều tra nguyện vọng nghề nghiệp của thanh niên, điều tra hay trưng cầu dân ý về một luật mới ban hành….
Điều tra xã hội học thực chất là trưng cầu ý kiến quần chúng, được tiến hành bằng cách phỏng vấn trực tiếp, thảo luận hay bằng hệ thống ankét (đóng, mở)….
– Điều tra là một phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng, một hoạt động có mục đích, có kế hoạch, được tiến hành một cách thận trọng, do đó người nghiên cứu cần tuân thủ nghiêm túc các bước sau đây:
+ Chuẩn bị điều tra gồm các thao tác: chọn mẫu, chọn địa bàn khảo sát, lựa chọn thời gian khảo sát, thiết kế phiếu hỏi và khảo sát định tính.
+ Tiến hành điều tra: điều tra viên phải được tập huấn để quán triệt mục đích, yêu cầu điều tra, thống nhất các biện pháp phù hợp với từng nhóm mẫu và từng địa bàn điều tra. Trong quá trình điều tra, người nghiên cứu cần tuân thủ những yêu cầu đã được đề ra. Nếu sử dụng cộng tác viên, điều tra viên, người nghiên cứu cần giám sát điều tra với mục đích thu được thông tin một cách khách quan, tin cậy.
+ Xử lý kết quả điều tra: được tiến hành bằng phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phân tích tư liệu, tổng hợp và phân loại tư liệu và tiến hành xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh … theo những biến số độc lập để rút ra những thuộc tính chung của các tập hợp mẫu nhằm hình thành luận cứ cho các giả thuyết nghiên cứu.
Tùy theo mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu cũng như trạng thái tồn tại của đối tượng khảo sát, người nghiên cứu có thể lựa chọn, sử dụng một số biện pháp xử lý thông tin định tính hay định lượng bằng các số liệu, các loại biểu đồ, sơ đồ để mô tả, giải thích, làm rõ các thuộc tính bản chất, xu thế của đối tượng nghiên cứu.
– Phương pháp điều tra có nhiều loại:
+ Điều tra bằng trò chuyện (đàm thoại).
+ Điều tra bằng phiếu+ Điều tra bằng trắc nghiệm.
Tùy theo mục đích và mức độ điều tra, người ta còn chia ra:
+ Điều tra thăm dò (diện rộng).
+ Điều tra sâu (hẹp, kín).
+ Điều tra bổ sung….
(3)  Điều tra bằng trò chuyện (đàm thoại).
(4)  Là phương pháp thu thập sự kiện về các hiện tượng, quá trình tâm lý thông qua quá trình giao tiếp trực tiếp với đối tượng theo một chương trình đã vạch ra một cách đặc biệt.
– Đàm thoại là phương pháp nghiên cứu mang tính chất độc lập hay bổ trợ nhằm làm sáng tỏ những điều chưa rõ khi quan sát, do đó cần được thực hiện theo kế hoạch định trước với những câu hỏi chuẩn bị trước để làm sáng tỏ vấn đề. Các phương pháp: phỏng vấn, tọa đàm, hỏi chuyện, trưng cầu ý kiến thuộc dòng họ của phương pháp trò chuyện (đàm thoại).
– Đặc điểm của phương pháp đàm thoại:
+ Nhờ tiếp xúc trực tiếp mà khả năng thay đổi câu hỏi cho phù hợp với các câu trả lời mà vẫn giữ nguyên được mục đích trong suốt thời gian trò chuyện. Điều quan trọng là phải duy trì trong suốt thời gian trò chuyện một không khí thoải mái,tự do và thiện chí, không được biến trò chuyện thành chất vấn, hỏi cung người được nghiên cứu.
+ Sự tiếp xúc trực tiếp sẽ tăng khả năng nghiên cứu không chỉ nội dung câu trả lời mà cả ẩn ý của chúng, đặc điểm của giọng nói và toàn bộ bức tranh hành vi của người đó. Bởi vậy, khi thiết kế buổi trò chuyện cần xác định rõ mục đích làm sao thu được kết quả dưới dạng trực tiếp và gián tiếp.
Cơ sở của trò chuyện là việc trao đổi, thảo luận về một quyển sách đã đọc,một vở kịch, một bộ phim đã xem hoặc tranh luận về một tình huống có vấn đề nào đó giúp người nghiên cứu hiểu được đặc điểm nhân cách của đối tượng, khẳng định, chính xác hóa, bổ sung cho những nhận xét về đối tượng.
+ Trò chuyện có ưu điểm là cung cấp cho người nghiên cứu những tài liệu về những điều thầm kín nhất trong tâm hồn người được nghiên cứu mà các phương pháp khác không làm được, giúp giải thích nguyên nhân của những đặc điểm tâm lý này hay khác. Tuy nhiên, phương pháp trò chuyện có hạn chế là: không thể đảm bảo câu trả lời hoàn toàn trung thực (nhất là khi tâm lý trò chuyện không thuận lợi, quan hệ không cởi mở, cảm thông và hợp tác, không lịch thiệp, tế nhị và cởi mở khi trò chuyện). Do đó, phương pháp này chỉ là phương pháp để bổ trợ để thu lượm các tài liệu bổ sung, hoặc tìm hiểu sơ bộ về đối tượng nghiên cứu trong giai đoạn đầuvà chỉ nên sử dụng phương pháp này trong việc nghiên cứu nhân cách nói chung và một số đặc điểm tâm lý nào đó nói riêng của con người.
(4) Điều tra bằng phiếu (Ankét)
Là phương pháp thu thập sự kiện trên cơ sở trả lời bằng văn bản (viết) của người được nghiên cứu theo một chương trình đã được thiết lập một cách đặc biệt. Nói khác: Ankét là phương pháp phỏng vấn gián tiếp thông qua việc hỏi và trả lời trên giấy. Việc xây dựng nội dung chính xác các câu hỏi và sự diễn đạt rõ ràng các câu hỏi có ý nghĩa quan trọng khi xây dựng ankét.
– Những yêu cầu của ankét:
+ Câu hỏi cần làm sao cho mọi người đều hiểu như nhau (đơn vị) vì khi điều tra không có sự tiếp xúc trực tiếp với đối tượng.
+ Phải hướng dẫn tỉ mỉ, trình tự, cách thức điền dấu vào ankét là rất cần thiết và quan trọng.
– Ankét chia làm 2 loại; kín và mở.
+ Ankét mở: người đọc phải tự mình biểu đạt câu trả lời cho những câu hỏi được đặt ra. Loại này giúp thu được tài liệu đầy đủ, phong phú hơn về đối tượng, nhưng rất khó xử lý kết quả thu được vì các câu trả lời rất đa dạng.
+ Ankét kín: chọn một trong các câu trả lời cho sẵn loại này dễ xử lý, nhưng tài liệu thu được chỉ đóng khung trong giới hạn của các câu trả lời đã cho trước.
– Ưu nhược điểm chung của ankét: Thu được khối lượng lớn tài liệu, độ tin cậy lại được xác định bằng “luật số lớn”, song độ tin cậy về sự tương đương giữa câu trả lời và hàm vi thực của đối tượng (người) không cao. Do đó, ankét chỉ được dùng với mục đích thăm dò, định hướng cho quá trình nghiên cứu.
(5) Điều tra bằng trắc nghiệm (test).
Là một công cụ đo lường đã được chuẩn hóa, dùng để đo lường khách quan một hay nhiều khía cạnh của một nhân cách hòan chỉnh qua những câu trả lời bằng ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ (ký hiệu) hoặc bằng những loại hành vi khác (như biểu hiện tâm lý….).
Trắc nghiệm là phương pháp đo lường khách quan những hiện tượng, sự vật được trắc nghiệm, biểu hiện tâm lý và mức độ trắc nghiệm.
Việc sử dụng các loại test đòi hỏi phải có chuyên môn sâu và chuyên gia về tâm lý kết hợp với các chuyên gia khác có liên quan tới từng nghề nghiệp. Ngày nay test là một phương pháp được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu vào nhiều mục đích khác nhau: tuyển dụng cán bộ, chọn nhân tài, chọn người đi học, chọn nhân viên bán hàng, chọn hoa hậu, dạy học, nghiên cứu khoa học….
Về mặt lịch sử test có từ thế kỷ XIX do Jim Keton (Mỹ) phát hiện. Ở Mỹ dùng đầu tiên, sau đó sang Pháp và hiện nay sử dụng rộng rãi trên thế giới.
– Đặc trưng của Test
+ Tính chuẩn hóa của việc trình bày và xử lý kết quả.
+ Tính không phụ thuộc của kết quả vào ảnh hưởng của tình huống trắc nghiệm và nhân cách của người trắc nghiệm (người nghiên cứu).
+ Tính đối chiếu của các tài liệu cá thể với các tài liệu chuẩn mực (tức là những tài liệu đã thu được cũng trong những điều kiện như thế ở một nhóm khá tiêu biểu).
Có nhiều loại test:
Test đo lường tâm lý.
Test khả lực và Test tốc định.
Test cá nhân và Test tập thể (nhóm).
Trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận.
Test trí tuệ, hứng thú, tri thức và kỹ năng.
Test năng lực chuyên môn, tính cách.
Test nghiên cứu những chức năng tâm lý riêng: chú ý, trí nhớ, tư duy v.v….
Hiện tại có hàng nghìn loại Test khác nhau để xác định đủ các loại phẩm chất tâm sinh lý của con người: tri thức, tài năng, đức độ, độ nhanh nhạy, trí thông minh, đời sống tình cảm, trí nhớ, chú ý … của con người – nhờ đó mà giúp tuyển chọn con người khá chính xác cho mọi họat động, mọi lĩnh vực.
– Test khi sử dụng cần đảm bảo các yêu cầu:
+ Tính tin cậy: Khi dùng các hình thức khác nhau của cùng một Test hoặc tiến hành cùng một Test nhiều lần trên cùng một đối tượng (cá nhân hay cùng mộ tnhóm) đều thu được kết quả giống nhau.
+ Tính ứng nghiệm (hiệu lực): Test phải đo được chính xác cái định đo.
+ Tính quy chuẩn: Test phải được thực hiện theo thủ tục tiêu chuẩn và phải có những quy chuẩn, được căn cứ theo một nhóm chuẩn và nhóm này phải đông đảo và mang tính chất giống với những người sau này đưa ra trắc nghiệm – nghĩa là đại diện cho một quần thể (dân số). Các quy chuẩn của nhóm là một hệ thống các chuẩn cứ để kiến giải kết quả trắc nghiệm của bất cứ một cá nhân nào.
– Ưu và nhược điểm của Test:
+ Ưu điểm của Test: tính ngắn gọn, tính tiêu chuẩn, tính tiêu chuẩn, tính đơn giản về ký thuật và thiết bị, sự biểu đạt kết quả dưới hình thức số lượng (lượng hoá cao).
+ Nhược điểm của Test:
• Tính không rõ rang về bản chất tâm lý của cái được xác định bằng test.
• Chỉ quan tâm tới kết quả thống kê mà ít chú ý đến quá trình diễn biến của kết quả.
• Dễ bị đánh tráo đối tượng nghiên cứu.
• Không tính đến sự phát triển của năng lực nói riêng, của tâm lý nói chung.
• Không tính đến các nhân tố đa dạng có ảnh hưởng đến kết quả.
Test được coi là một phương pháp nghiên cứu khoa học nhưng chỉ đóng vai trò bổ trợ, cho phép thu được tài liệu định hướng có giá trị.
Trong giáo dục, để khảo sát, đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh viên, mọi giáo viên bình thường có thể dùng test giáo dục – đó là loại trắc nghiệm khách quan dùng để khảo sát thành tích học tập của học sinh, sinh viên. Ngày nay, Test được sử dụng như một phương tiện kiểm tra tối ưu các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và như là một phương pháp nghiên cứu khoa học.
Test có tác dụng tích cực như sau:
Nhanh chóng, tốn ít thời gian, đảm bảo tính khách quan trong đánh giá, khảo sát được một giới hạn rộng về nội dung của các môn học hoặc bài học, gây hứng thú và kích thích tính tích cực học tập của học sinh, sinh viên.
Có thể sử dụng nhiều loại test trong giáo dục tuỳ theo cách đặt câu hỏi trắc nghiệm khác nhau. Thông thường sử dụng 5 loại test như sau:
Trắc nghiệm đúng, sai (có, không)
Trắc nghiệm nhiều lựa chọn
Trắc nghiệm đối chiếu cặp đôi (ghép đôi)
Trắc nghiệm điền thế (điền khuyết)
Trắc nghiệm hỏi đáp ngắn gọn (diễn giải)….
Mỗi loại test đều có ưu, nhược điểm riêng. Dùng test phải đúng mục đích, đúng lúc, đúng chỗ, cần có những chuẩn hoá hình thức đơn giản, tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh và tình huống cụ thể mà lựa chọn, sử dụng và phối hợp tối ưu các test để đạt được hiệu quả của hoạt động.
Nguồn: http://phuongphapnghiencuukhoahoc.com/phuong-phap-dieu-tra/

2c. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp chuyên gia là phương pháp điều tra qua đánh giá của các chuyên gia về vấn đề, một sự kiện khoa học nào đó.
Thực chất đây là phương pháp sử dụng trí tuệ, khai thác ý kiến đánh giá của các chuyên gia có trình độ cao để xem xét, nhận định một vấn đề, một sự kiện khoa học để tìm ra giải pháp tối ưu cho vấn đề, sự kiện đó.
Phương pháp chuyên gia rất cần thiết cho người nghiên cứu không chỉ trong quá trình nghiên cứu mà còn cả trong quá trình nghiệm thu, đánh giá kết quả, hoặc thậm chí cả trong quá trình đề xuất giả thuyết nghiên cứu, lựa chọn phương pháp nghiên cứu, củng cố các luận cứ…..
Phương pháp chuyên gia là phương pháp có ý nghĩa kinh tế, nó tiết kiệm về thời gian, sức lực, tài chính để triển khai nghiên cứu. Tuy nhiên nó chủ yếu dựa trên cơ sở trực cảm hay kinh nghiệm của chuyên gia, vì vậy chỉ nên sử dụng khi các phương pháp không có điều kiện thực hiện, không thể thực hiện được hoặc có thể sử dụng phối hợp với các phương pháp khác.
Để sử dụng có hiệu quả phương pháp chuyên gia, người nghiên cứu cần chú ý:
+ Lựa chọn đúng chuyên gia có năng lực, kinh nghiệm về lĩnh vực nghiên cứu, trung thực, khách quan trong nhận định, đánh giá.
+ Lựa chọn những vấn đề cần tham vấn với những mục đích cụ thể để sử dụng chuyên gia phù hợp:
Nếu sử dụng chuyên gia để nhận định một sự kiện khoa học hay một giải pháp thông tin thì có thể thông qua các hình thức hội thảo, tranh luận….. Tất cả các tư liệu đều được xử lý theo một chuẩn, một hệ thống để tìm ra được các ý kiến gầ nnhau hoặc trùng nhau của đa số chuyên gia. Những ý kiến đó sẽ là những kết luận chung về sự kiện cần tìm.
Nếu sử dụng chuyên gia với mục đích đánh giá một công trình khoa học thì phải xây dựng một hệ thống các tiêu chí cụ thể, tường minh và có thể dùng một thang điểm chuẩn để đánh giá, đồng thời hướng dẫn kỹ thuật để các chuyên gia đánh giá theo các thang điểm chuẩn đó sẽ giảm thiểu sai sót kỹ thuật có thể xảy ra.
Để đảm bảo tính khách quan trong đánh giá và nhận định về một sự kiện khoa học, cần hạn chế tới mức tối thiểu ảnh hưởng qua lại của chuyên gia, có thể đánh giá bằng văn bản, không để các chuyên gia gặp gỡ nhau trực diện, phát biểu công khai, nếu cần đánh giá công khai thì người có uy tín nhất không phải là người đầu tiên phát biểu ý kiến.
Phương pháp chuyên gia được chia thành nhiều loại:
(1)  Phỏng vấn
(2)  Phỏng vấn là đưa ra những câu hỏi với người đối thoại để thu thập thông tin.Trước mỗi đối tượng được chọn để phỏng vấn, người nghiên cứu cần có những cách tiếp cận khác nhau để thu được từ người được phỏng vấn những thông tin cần thiết cho nghiên cứu.
Trong phỏng vấn người ta chia ra các loại như: phỏng vấn có chuẩn bị trước, phỏng vấn không chuẩn bị trước, trao đổi trực tiếp, trao đổi qua điện thoại…..
(3)  Phương pháp hội đồng
(4)  Nội dung phương pháp hội đồng là đưa ý kiến ra trước các nhóm chuyên gia khác nhau để nghe họ thảo luận, tranh luận, phân tích. Không có ai kết luận trong các cuộc thảo luận này, chỉ có người nghiên cứu ghi nhận lại tất cả ý kiến đó để nghiên cứu, phân tích.
Trong phương pháp hội đồng, người ta thường dùng phương pháp tấn công não (brainstorming) gồm hai giao đoạn tách biệt nhau: giai đoạn phát ý tưởng và giai đoạn phân tích ý tưởng do hai nhóm chuyên gia thực hiện (nhóm này phát ý tưởng, còn nhóm kia phân tích). Người tổ chức tấn công não cần: tạo bầu không khí tự do tư tưởng, thoải mái tinh thần, không ai được thể hiện khích lệ, tán thưởng,châm biếm hoặc chỉ trích, lắng nghe mọi ý kiến, kể cả những ý kiến lạc đề.
Việc tổ chức lấy ý kiến trong các hội nghị bàn tròn, hôi thảo… đều là những dạng khác nhau của phương pháp hội đồng.
(3) Điều tra bằng bảng hỏi
Điều tra bằng bảng hỏi là một phương pháp dùng phiếu hỏi do người nghiên cứu thiết kế sẵn một phiếu với những câu hỏi được sắp xếp theo một trật tự của suy luận logic (diễn dịch, quy nạp hoặc loại suy), người nghiên cứu có thể thu được những thông tin chân xác về sự vật hoặc hiện tượng từ đối tượng điều tra.
Về mặt kỹ thuật của phương pháp điều tra bằng bảng hỏi có ba loại công việc phải chú ý:
– Chọn mẫu: Việc chọn mẫu phải đảm bảo vừa mang tính ngẫu nhiên, vừa mang tính đại diện, tránh việc chọn mẫu theo định hướng chủ quan của người nghiên cứu.
Có một số sách chọn mẫu: chọn mẫu ngẫu nhiên, chọn mẫu hệ thống, chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng, chọn mẫu hệ thống phân tầng, chọn mẫu từng cụm…
– Thiết kế bảng câu hỏi: có hai nội dung cần quan tâm:
+ Các loại câu hỏi: các loại câu hỏi phải đảm bảo khai thác cao nhất ý kiến cá nhân từng người được hỏi, thông thường có một số câu hỏi trong các cuộc điều tra như:
Câu hỏi kèm phương án trả lời “có” và “không”
Câu hỏi kèm nhiều phương án trả lời để mở rộng khả năng lựa chọn.
Câu hỏi kèm phương án trả lời có trọng số để phân biệt mức độ quan trọng.
Các câu hỏi mở để người điền phiếu trả lời theo ý mình.
+ Trật tự lôgic của các câu hỏi: phép suy luận được sử dụng trong quá trình tổ chức bộ câu hỏi, có thể sử dụng phép suy luận diễn dịch, quy nạp hoặc loại suy để tổ chức bộ câu hỏi.
Suy luận diễn dịch: khi cần công bố toàn bộ mục đích cuộc điều tra.
Suy luận quy nạp: khi cần công bố từng phần mục đích cuộc điều tra.
Loại suy: khi cần giữ bí mật hoàn toàn mục đích cuộc điều tra.
Cách tổ chức câu hỏi vừa mang tính kỹ thuật, vừa mang tính nghệ thuật vận dụng các phép suy luận lôgic trong các cuộc điều tra.
– Xử lý kết quả điều tra:
+ Áp dụng nguyên tắc tổng hợp tư liệu trong tiếp cận lịch sử để sắp xếp, phân tích và tổng hợp tư liệu theo “trình tự thời gian” và “nhân-quả”.
+ Kết quả điều tra được xử lý dựa trên cơ sở thống kê toán. Hiện nay,chương trình xử lý thống kê trên máy đã được phổ dụng – đó là chương trình SPSS (Statistical Package for Social Studies) giúp giảm nhẹ rất nhiều công việc xử lý các kết quả điều tra.
Nguồn: http://phuongphapnghiencuukhoahoc.com/phuong-phap-chuyen-gia/
2d. Phương pháp thực nghiệm khoa học
Là phương pháp thu thập các sự kiện trong những điều kiện được tạo ra một cách đặc biệt (tạo ra kinh nghiệm mới, lý thuyết mới để khẳng định những mối liên hệ dự kiến sẽ có trong những điều kiện mới) đảm bảo cho sự thể hiện tích cực, chủ động của các hiện tượng, sự kiện nghiên cứu.
Nói cách khác: Là chủ động gây ra hiện tượng nghiên cứu trong những điều kiện khống chế, nhờ đó có thể lặp lại nhiều lần, tách bạch ra và biến thiên từng nhân tố tác động và đánh giá, đo đạc tỉ mỉ sự biến đổi của hiệu quả theo sự biến thiên ấy.
– Phương pháp thực nghiệm khoa học là một trong các phương pháp cơ bản trong nghiên cứu khoa học. Song chỉ được sử dụng khi và chỉ khi đặt ra bài toán làm sáng tỏ các mối liên hệ, sự phụ thuộc, giữa các hiện tượng nghiên cứu và sự thể hiện các giả định, kiểm định các giả thuyết.Có 3 điều kiện để sử dụng phương pháp thực nghiệm khoa học:
+ Biết được chính xác những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự nảy sinh và diễn biến của các hiện tượng nghiên cứu.
+ Xác định được những nguyên nhân của các hiện tượng do vạch ra được các điều kiện ảnh hưởng.
+ Lặp lại thí nghiệm nhiều lần tuỳ theo ý muốn và như vậy sẽ thu được, tích luỹ được những tài liệu định lượng mà từ đó có thể phán đoán về tính điển hình hay ngẫu nhiên của các hiện tượng nghiên cứu.
Tính chất đặc trưng của phương pháp thực nghiệm:
+ Cho khả năng nghiên cứu các hiện tượng với việc xác định đúng đắn các tác động quyết định để làm nhanh lên hoặc chậm lại các quá trình.
+ Cho khả năng thực hiện độc lập với môi trường (thực nghiệm trong phòng thí nghiệm).
+ Việc bổ sung nội dung của đối tượng thực hiện bằng các thành phần mới để làm thay đổi sự phát triển của đối tượng.
+ Kiểm định các giả thuyết giả định đã nêu ra và có những kết luận về chúng.
+ Giải thích các kết quả nhờ các công cụ và phương tiện đặc biệt.
– Yêu cầu cơ bản của việc sử dụng phương pháp thực nghiệm:
+ Không được cản trở hoặc đảo lộn tiến trình hoạt động bình thường của đối tượng nghiên cứu.
+ Chỉ được tiến hành thực nghiệm khi có đầy đủ luận cứ: mục đích; điều kiện (cơ sở lý luận, giả thuyết khoa học, đối tượng, tác động, phương pháp nghiên cứu,địa bàn thực nghiệm, lực lượng tham gia thực nghiệm v.v…); các bước thực nghiệm; xử lý kết quả; phân tích lý luận; khái quát hoá và hình thành tri thức mới… để tin tưởng rằng việc đưa ra những cái mới đã được kiểm tra vào quá trình nghiên cứu chỉ có thể góp phần nâng cao hiệu quả và thành công của công trình nghiên cứu, ít ra là không gây hậu quả xấu.
– Phân loại: thường chia thành hai loại phương pháp thực nghiệm chính:
+ Thực nghiệm tự nhiên.
+ Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm.
Ngoài ra do mục đích và mức độ nghiên cứu người ta còn chia thành các loại phương pháp thực nghiệm khác như:
+ Thực nghiệm thăm dò.
+ Thực nghiệm xét nghiệm.
+ Thực nghiệm định tính.
+ Thực nghiệm định lượng…
(1) Thực nghiệm tự nhiên
Là phương pháp tiến hành trong điều kiện bình thường, giữ được trạng thái và nội dung hoạt động tự nhiên của đối tượng mà người nghiên cứu vẫn chủ động gây ra được những hiện tượng cần nghiên cứu.
Thực chất của phương pháp này là đem vấn đề nghiên cứu ra tổ chức thực hiện ở một địa bàn nhất định với những yêu cầu nhất định đối với những đối tượng thực hiện. Người nghiên cứu đưa ra kế hoạch thật tỉ mỉ, hợp lý tạo điều kiện thực hiện, có theo dõi, có đối chứng để cuối cùng có được những kết luận về tác dụng của những vấn đề mới đưa ra và phổ biến rộng rãi việc áp dụng.
(2) Thực nghiêm trong phòng thí nghiệm
Là phương pháp thực nghiệm được tiến hành để kiểm tra một vấn đề riêng biệt nào đó, hoặc để thu thập những cứ liệu cần thiết về đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp này có thể dùng các thiết bị chuyên môn, phương tiện kỹ thuật đặc biệt. Nếu không thì có thể dùng các tài liệu thực nghiệm được soạn thảo đặc biệt.
– Nếu sử dụng thiết bị thì cho phép ghi nhận chính xác những tác động bên ngoài và câu trả lời tương ứng của người thực nghiệm.
Phương pháp thực nghiệm trong phòng thí nghiệm nói chung trước đây ít được ứng dụng để nghiên cứu trong khoa học giáo dục, chủ yếu dùng trong việc nghiên cứu các đối tượng – sự vật, hiện tượng, quá trình của tự nhiên và xã hội. Ngày nay, có thể dùng phương pháp này trong việc nghiên cứu hoạt động của con người: vận động, trí nhớ, chú ý, trí tuệ, tình cảm, ý chí và còn sử dụng rộng rãi trong việc nghiên cứu cơ chế sinh lý của các thể hiện tâm lý ở con người, các quá trình nhận thức và trạng thái tâm lý riêng lẻ mà trước hết là cảm giác, tri giác, trí nhớ, chú ý… (người ta dùng máy tốc thị giản đơn hay điện tử để nghiên cứu tốc độ tri giác, khối lượng chú ý…).
– Nếu không sử dụng thiết bị máy móc thì dùng tài liệu được soạn thảo một cách chuyên biệt làm phương tiện kích thích các hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu.Đó là một loạt chữ số, những đoạn câu mạch lạc hay không mạch lac, các loại từ có hoặc không có màu sắc xúc cảm… để nhận biết.
Khác với thực nghiệm tự nhiên, thực nghiệm trong phòng thí nghiệm có thể là:
Thực nghiệm xác nhận: có hay không có hiện tượng này khác.
Thực nghiệm hình thành: nghiên cứu các hiện tượng trực tiếp trong quá trình hình thành tích cực những đặc điểm này hay khác.
– Các quy tắc vận dụng phương pháp thực nghiệm khoa học:
+ Xây dựng sơ đồ thực nghiệm nhân tố (định tính).
+ Nêu giả thuyết về hiệu quả có thể xác định được đã được phát hiện ra quá trình nghiên cứu trước.
+ Ước lượng các biến thiên: có những yếu tố không đo đạc được phải lượng hoá việc đo đạc. Người ta dùng phương pháp đơn giản:
• Dùng phương pháp ghi dấu: dùng dấu hiệu qui ước nào đó của đối tượng nghiên cứu, khi gặp lại có thể đánh dấu và đếm được các dấu (như đếm lỗi chính tả).
• Lập biểu phân hạng (xếp hạng): xếp các đối tượng thành một dãy theo tiêu chuẩn tăng dần hoặc giảm dần và sau đó gán cho mỗi đối tượng (hiện tượng)nghiên cứu một số chỉ rõ một đối tượng.
+ Khống chế các tác động thực nghiệm:
• Khống chế ảnh hưởng thứ tự các tác động (dùng kỹ thuật hoán vị).
• Khống chế những điều kiện chủ quan của đối tượng được thực nghiệm để nó cân bằng và ổn định.
• Khống chế những tác động không thực nghiệm (giảm entropi).
+ Đảm bảo tính chất tiêu biểu của đối tượng nghiên cứu: quy nạp các đối tượng nhỏ để có tác dụng phổ biến, nên mẫu nghiên cứu phải tiêu biểu.
Có hai cách chọn nhóm mẫu:
Ngẫu nhiên: theo thống kê xác suất (chọn bất kỳ).
Chọn mẫu đại diện (chọn tỷ lệ tất cả như nhau).
+ Ghi biên bản: Cần ghi biên bản tỷ mỷ, chính xác.
– Phương pháp thực nghiệm khoa học cho phép đi sâu vào quan hệ bản chất, xác định được các quy luật, phát hiện ra các thành phần và cơ chế chính xác, kết quả thu được có độ tin cậy cao. Nhà nghiên cứu không thụ động chờ đợi sự xuất hiện các hiện tượng mà mình quan tâm mà tự mình tạo ra các điều kiện nên có khả năng tính đến một cách đầy đủ hơn các điều kiện đó cũng như những ảnh hưởng mà các điều kiện ấy gây ra cho đối tượng (người được nghiên cứu). Song hạn chế của phương pháp thực nghiệm khoa học là: hiện tượng diễn ra không được thực như tự nhiên, đòi hỏi phải có thiết bị, kỹ năng, tổ chức, thời gian tương đối phức tạp, khó có thể dùng phương pháp này để nghiên cứu những hoạt động diễn biến phức tạp trong tư tưởng, tình cảm con người.
Nguồn: http://phuongphapnghiencuukhoahoc.com/d-phuong-phap-thuc-nghiem-khoa-hoc/

2e. Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm là phương pháp kết hợp lý luận với thực tế, đem lý luận phân tích thực tế, từ phân tích thực tế lại rút ra lý luận cao hơn.
Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm là phương pháp xem xét lại những thành quả của hoạt động thực tiễn trong quá khứ để rút ra những kết luận bổ ích cho khoa học và thực tiễn.
Tổng kết kinh nghiệm thường hướng vào các hoạt động xã hội và được tiến hành như sau:
– Phát hiện các sự kiện điển hình, các sự kiện này có ảnh hưởng lớn đối với cuộc sống và hoạt động thực tiễn.
– Gặp gỡ, trao đổi với những nhân chứng, những người đã trực tiếp tham gia sự kiện để họ mô tả, bày tỏ cảm xúc, đưa ra nhận định, đánh giá về nguyên nhân và diễn biến sự kiện.
– Lặp lại mô hình sự kiện, khôi phục lại sự kiện đã xảy ra.
– Phân tích từng mặt của sự kiện, những nguyên nhân, hoàn cảnh xuất hiện,diễn biến sự kiện theo trình tự lịch sử.
– Dựa trên một lý thuyết khoa học để chứng minh, để giải thích sự kiện, tìm ra những kết luận thực sự khách quan về bản chất và quy luật phát triển của sự kiện, rút ra những bài học cần thiết, sau đó cần được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi những bài học rút ra được qua phân tích và tổng kết kinh nghiệm.
Phân tích và tổng kết kinh nghiệm được coi là một phương pháp nghiên cứu khoa học độc lập, chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu khoa học giáo dục nói riêng và khoa học xã hội nói chung, có nhiệm vụ nghiên cứu, phân tích, phát hiện, tổng kết những kinh nghiệm tiên tiến của bản thân người khác hay của một tập thể khác.
Phân tích và tổng kết kinh nghiệm giúp người nghiên cứu phát hiện các vấn đề cần giải quyết, nêu lên giả thuyết về những mối liên hệ có tính quy luật giữa các tác động và kết quả, kiến nghị các biện pháp, giải pháp để bổ khuyết thiếu sót và hoàn thiện quá trình hay một vấn đề nào đó.
Do đó, có thể nói: Phân tích và tổng kết kinh nghiệm cũng là thực hiên một đề tài NCKH, chỉ khác là tên đề tài đã được xác định, các kết quả đã có sẵn. Điều đó có ý nghĩa quan trọng là lựa chọn đúng đắn, đầy đủ luận cứ khoa học, các kinh nghiệm tiên tiến cần phân tích, tổng kết và sau đó đưa ra những biện pháp để cải tiến, hoàn thiện và nâng lên ở mức cao hơn.
– Để thực hiện phân tích và tổng kết kinh nghiệm cần tuân theo quy trình gồm các bước sau:
+ Bước chuẩn bị:
• Xác định chính xác tiêu đề của kinh nghiệm.
• Cần theo dõi các công trình khoa học, các kinh nghiệm tiên tiến đã được công bố để tránh tình trạng công bố sau.
• Trao đổi ý kiến với các nhà khoa học, bạn đồng nghiệp, để xác định tiêu đề một cách chuẩn xác và khẳng định kết quả kinh nghiệm của mình.
+ Bước thu thập tài liệu:
• Thu thập tư liệu về lý luận, vì bất kì một kinh nghiệm, công trình khoa học nào cũng phải dựa trên một cơ sở lý luận, một luận điểm lý thuyết nào đó.
• Tập hợp và xử lý các kết quả đã đạt được của kinh nghiệm.
+ Viết kinh nghiệm.
• Lập cấu trúc lôgic của bài viết.
• Viết kinh nghiệm: thể hiện tính khẳng định quan điểm của mình, có cơ sở khoa học và thực tiễn.
Những kinh nghiệm cần đạt những tiêu chuẩn sau:
Tính cấp thiết và tính triển vọng.
Có chứa những nhân tố mới.
Có kết quả cao và ổn định.
Tính tối ưu…
Nguồn: http://phuongphapnghiencuukhoahoc.com/phuong-phap-phan-tich-va-tong-ket-kinh-nghiem/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cám ơn Anh/Cbij đã góp ý, nhận xét và đánh giá. Chúng tôi sẽ có phản hổi trong thời gian sớm nhất có thể.