Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

 CÁCH LẬP TRÍCH DẪN VÀ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO THEO CHUẨN APA[1]

Trích dẫn theo chuẩn APA (American Psychological Association) là kiểu trích dẫn ra đời năm 1929 bởi một nhóm các nhà tâm lý học, nhân chủng học và quản lý kinh doanh, kiểu trích dẫn này nhấn mạnh vào tên tác giả và thời gian công bố của công trình khoa học, ví dụ như (Nguyễn Văn A, 1998). Đồng thời, thông tin đầy đủ của tài liệu tham khảo sẽ được nêu trong Danh mục tài liệu tham khảo ở cuối công trình khoa học.

Cách trích dẫn và lập danh mục tài liệu tham khảo theo chuẩn APA hiện nay được áp dụng khá phổ biến trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam. Nhiều trường đại học ở Việt Nam hiện nay đang dựa theo quy tắc và hướng dẫn trích dẫn của APA để xây dựng quy định về lập trích dẫn và danh mục tài liệu tham khảo trong khóa luận, luận văn, luận án thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Các trường đang áp dụng quy tắc này gồm có: Trường Đại học Sài Gòn, Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Tài chính Maketing,…

3.4.1.1. Cách ghi trích dẫn theo chuẩn APA

Đối với trường hợp trích dẫn nguyên văn

Nếu trích dẫn trực tiếp từ một tác phẩm, nội dung được trích dẫn ngắn thì đặt trong dấu “”, cuối đoạn trích ghi tên tác giả, năm xuất bản và số trang của tài liệu tham khảo đặt trong dấu ().

Ví dụ: Ông đã phát biểu rằng: “Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác” (Trần Ngọc Thêm, 1999a, tr…).

Nếu cần trích dẫn dài hơn 2 câu thì phải tách thành một đoạn riêng khỏi phần nội dung đang trình bày, với lề trái lùi vào 1cm, cùng vị trí khi bắt đầu một đoạn văn mới. Gõ toàn bộ trích dẫn trên lề mới và thụt lề dòng đầu tiên của đoạn tiếp theo trong trích dẫn vào 1cm từ lề mới.

Ví dụ:

Lê Tử Thành định nghĩa:

Phương pháp lịch sử nhằm phản ánh trong tư duy quá trình lịch sử cụ thể của sự phát triển. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong của nó.

Quá trình ấy biểu hiện cụ thể qua những bước phát triển quanh co, phức tạp, muôn hình, muôn vẻ, có lúc tất nhiên, có lúc ngẫu nhiên, liên tục xảy ra trong thời gian[Lê Tử Thành (1991), tr.68].

Nếu không có điều kiện tiếp cận được tài liệu gốc mà phải trích dẫn thông qua một tài liệu khác thì phải nêu rõ cách trích dẫn này, đồng thời tài liệu gốc đó không được liệt kê trong danh mục tài liệu tham khảo của công trình khoa học.

Ví dụ: Sơn Nam cho rằng “người Nam Bộ cùng có chút tự ti về nguồn gốc gia phả” (trích dẫn theo: Võ Văn Thành, 2013, tr…).

Đối với trường hợp trích dẫn diễn giải

Nếu diễn giải ý tưởng của tác phẩm khác, chỉ phải nêu tác giả và năm xuất bản chứ không phải nêu số trang khi trích nguồn trong văn bản, nhưng APA khuyến khích cung cấp số trang dù không bắt buộc.

Đối với tác giả là người Việt Nam nên ghi đầy đủ họ tên (không nên ghi học vị, chức danh) khi lập trích dẫn, đối với tác giả là người nước ngoài thì chỉ ghi họ. Trường hợp tác phẩm được trích dẫn có hai tác giả thì nêu tên cả hai tác giả khi trích nguồn tài liệu tham khảo, sử dụng từ “và” hoặc dấu “&” giữa tên của hai tác giả tương ứng.

Ví dụ đối với tác giả Việt Nam: trong các bộ chính sử của Trung Hoa thời phong kiến đã ghi nhận người Chăm là bậc thầy trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc gạch (Ngô Văn Doanh, 1994); Hoặc: Theo Ngô Văn Doanh (1994), Trong các bộ chính sử của Trung Hoa thời phong kiến đã ghi nhận người Chăm là bậc thầy trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc gạch....

Phan Đại Doãn và Nguyễn Quang Ngọc (1988) cho rằng..... hoặc …(Phan Đại Doãn & Nguyễn Quang Ngọc, 1988).

Ví dụ đối với tác giả người nước ngoài: nếu 1 tác giả thì ghi: Berndt (2002) cho rằng… hoặc ….(Berndt, 2002); nếu 2 tác giả thì ghi: Black & Wiliam (1998) cho rằng… hoặc …(Black & Wiliam, 1998); nếu 3 tác giả thì ghi: Black, Wiliam & James (2011) cho rằng… hoặc …(Black, Wiliam, & James, 2011); nếu bốn tác giả trở lên thì ghi: Black et al., (2015) cho rằng... hoặc ….(Black et al., 2015).

Đối với trường hợp không biết tác giả và năm xuất bản không xác định, khi trích dẫn, chỉ cần lấy tiêu đề hoặc đặt một số từ đầu tiên của tiêu đề trong dấu ngoặc đơn và theo sau là cụm từ viết tắt “n.”. Ví dụ: (“Tutoring and APA”, n.).

3.4.1.2. Cách viết tài liệu tham khảo theo chuẩn APA

Đối với sách có tác giả: Tên các tác giả. (Năm xuất bản). Tên tài liệu tham khảo. Địa điểm: Nhà xuất bản (hoặc ULR - đối với sách điện tử).

Nếu công trình có hai tác giả thì ghi tên cả hai tác giả và sử dụng dấu “&”; nếu từ ba đến bảy tác giả thì liệt kê tên tất cả các đồng tác giả, trước tên đồng tác giả cuối cùng có dấu “&”; nếu tác phẩm có hơn bảy tác giả, liệt kê sáu tác giả đầu, sau đó dùng dấu ba chấm “...” và đến tên tác giả cuối cùng (trước tên tác giả cuối không có dấu “& ”); nếu không biết tác giả thì dùng tiêu đề thay tên tác giả…

Ví dụ:

Lê Tử Thành. (1991). Lôgic học và phương pháp nghiên cứu khoa học. Tp Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.

Calfee, R. C., & Valencia, R. R. (1991). APA guide to preparing manuscripts for journal publication. Washington, DC: American Psychological Association.

Hoàng Phê (Chủ biên). (1994). Từ điển tiếng Việt. Hà Nội: NXB Giáo dục – Trung tâm từ điển học.

Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn. (1996). Báo cáo tổng kết 5 năm (1992 – 1996) phát triển lúa lai. Hà Nội: Vụ tổng hợp – Văn phòng.

Vancouver Community College Library. (2018). Vancouver Citation Style. Nguồn truy cập: https://library.vcc.ca/media/vcc-library/content-assets/documents/VancouverStyleGuide.pdf

Đối với sách dịch có tên người dịch: Tác giả. (Năm xuất bản). Tên tác phẩm. (Dịch giả dịch). Địa điểm: Nhà xuất bản.

Ví dụ: Phùng Hữu Lan. (1968). Đại cương triết học sử Trung Quốc. (Nguyễn Văn Dương dịch). Sài Gòn: Đại học Vạn Hạnh.

Đối với luận văn, luận án, đề tài khoa học: Tác giả. (Năm). Tên tác phẩm. Luận án tiến sĩ/Luận văn thạc sĩ/Đề tài nghiên cứu khoa học. Tên cơ quan, địa điểm.

Ví dụ:

Nguyễn Thị Thanh Thủy. (2013). Các cuộc vận động dân chủ trong quá trình phi thực dân hóa ở Việt Nam giai đoạn 1904-1945. Luận án tiến sĩ. Trường ĐH KHXH&NV – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

Ngô Minh Oanh. (2011). Sự du nhập văn minh phương Tây vào Nam Bộ Việt Nam thời cận đại trên các lĩnh vực: thiết chế chính trị, tư tưởng và giáo dục (1859 - 1945). Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.

Đối với bài báo trong tạp chí:

- Bài báo bản in: Tên tác giả. (năm xuất bản). Tên bài báo. Tên tạp chí, tập (số báo), các trang đăng bài.

Ví dụ: Phạm Phúc Vĩnh. (2012). Đối thoại giữa ASEAN và Việt Nam trong quá trình giải quyết vấn đề Cam-pu-chia. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 10 (151)/2012, 10 – 16.

- Bài báo bản điện tử: Tên tác giả. (năm xuất bản). Tên bài báo. Tên tạp chí, tập (số báo), các trang đăng bài. doi: Số DOI[2] hoặc Nguồn truy cập: URL (Uniform Resource Locator) dẫn đến nội dung của bài báo.

Ví dụ: Vo Van That & Hoang Xuan Son. (2023). The development of private economy in Vietnam from 1986 to 2001: from policy to practice. International Journal of Social Science and Human Research, Volume 06, Issue 02, p. 974-977. doi: https://doi.org/10.47191/ijsshr/v6-i2-28.

Võ Tòng Xuân. (2003). Giáo dục Việt Nam trước hội nhập toàn cầu: Cần thay đổi cơ bản và toàn diện. Báo Lao động, ngày 13/5/2003. Nguồn truy cập: http://www.laodong.com.vn/ pls/bld/display$.htnoidung(37,66196).

- Đối với bài viết trong một cuốn sách, kỉ yếu hội thảo khoa học: Tên tác giả. (năm xuất bản). Tên bài viết. Tên sách/kỉ yếu. Địa điểm: nhà xuất bản, các trang đăng bài.

Phạm Phúc Vĩnh. (2010). Nội dung Cách mạng tháng Tám ở Nam bộ trong sách giáo khoa Lịch sử hiện nay. Kỉ yếu Hội thảo khoa học Cách mạng tháng Tám ở Nam bộ. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb. ĐHSP Tp. HCM, 215-221.

3.4.1.3. Cách sắp xếp tài liệu tham khảo

Danh mục tài liệu tham khảo được sắp xếp theo thứ tự chữ cái của họ tác giả đầu tiên của mỗi công trình khoa học. Nếu trùng chữ cái đầu tiên của họ thì xếp theo chữ cái tiếp theo. Nếu trùng họ thì xếp theo chữ cái đầu tiên của tên đệm. Tất cả các dòng sau của mỗi mục trong danh mục tài liệu tham khảo sẽ lùi vào 1,0cm so với dòng đầu tiên.

Một tác giả có nhiều tác phẩm thì sắp xếp theo năm xuất bản từ xa đến gần; nếu có nhiều công trình khoa học của cùng một tác giả xuất bản trong cùng một năm thì sắp xếp theo thứ tự chữ cái của tên công trình, sau đó thêm các chữ cái a, b, c,… vào liền sau năm xuất bản (ví dụ: 2002a; 2002b).

Ví dụ:

Danh mục tài liệu tham khảo

Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn. (1996). Báo cáo tổng kết 5 năm (1992 – 1996) phát triển lúa lai. Hà Nội: Vụ tổng hợp – Văn phòng.

Calfee, R. C., & Valencia, R. R. (1991). APA guide to preparing manuscripts for journal publication. Washington, DC: American Psychological Association.

Đặng Phong. (2014a). “Phá rào” trong đêm trước đổi mới. Hà Nội: Nhà xuất bản Tri thức.

Đặng Phong. (2014b). Tư duy kinh tế Việt Nam 1975 – 1989. Hà Nội: Nhà xuất bản Tri thức.

Hoàng Phê (Chủ biên). (1994). Từ điển tiếng Việt. Hà Nội: NXB Giáo dục – Trung tâm từ điển học.

Lê Tử Thành. (1991). Lôgic học và phương pháp nghiên cứu khoa học. Tp Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.

Ngô Minh Oanh. (2011). Sự du nhập văn minh phương Tây vào Nam Bộ Việt Nam thời cận đại trên các lĩnh vực: thiết chế chính trị, tư tưởng và giáo dục (1859 - 1945), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội.

Nguyễn Thị Thanh Thủy. (2013). Các cuộc vận động dân chủ trong quá trình phi thực dân hóa ở Việt Nam giai đoạn 1904-1945. Luận án tiến sĩ. Trường ĐH KHXH&NV – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

Phạm Phúc Vĩnh. (2010). Nội dung Cách mạng tháng Tám ở Nam bộ trong sách giáo khoa Lịch sử hiện nay. Kỉ yếu Hội thảo khoa học Cách mạng tháng Tám ở Nam bộ. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb. ĐHSP Tp. HCM, 215-221.

Phạm Phúc Vĩnh. (2012). Đối thoại giữa ASEAN và Việt Nam trong quá trình giải quyết vấn đề Cam-pu-chia. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 10 (151)/2012, 10 – 16.

Phùng Hữu Lan. (1968). Đại cương triết học sử Trung Quốc. (Nguyễn Văn Dương dịch). Sài Gòn: Đại học Vạn Hạnh.

Vancouver Community College Library. (2018). Vancouver Citation Style. Nguồn truy cập: https://library.vcc.ca/media/vcc-library/content-assets/documents/VancouverStyleGuide.pdf

Võ Văn Thành. (2013). Văn hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.

Vo Van That & Hoang Xuan Son. (2023). The development of private economy in Vietnam from 1986 to 2001: from policy to practice. International Journal of Social Science and Human Research, Volume 06, Issue 02, 974-977. doi: https://doi.org/10.47191/ijsshr/v6-i2-28.


[1] APA là từ viết tắt của hiệp hội Tâm lý học Mỹ (American Psychological Association). Quy tắc và hướng dẫn trích dẫn của APA được xây dựng từ năm 1929, kiểu trích dẫn này nhấn mạnh vào tên tác giả và thời gian công bố tác phẩm. Cách trích dẫn được trình bày trong tài liệu này được xây dựng theo “Publication Manual of the American Psychological Association, 6th ed., 2nd printing” của APA.

Phần nội dung về lập trích dẫn và danh mục tài liệu tham khảo theo chuẩn APA được viết chủ yếu dựa theo Hướng dẫn trích dẫn, trích nguồn và lập danh mục tài liệu tham khảo được ban hành kèm theo Quyết định số 02/QĐ-XHNV-TTPC-SHTT ngày 19 tháng 01 năm 2018 của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] DOI (a Digital Object Identifier) là một tên riêng được tổ chức DOI quốc tế đặt cho mỗi bài báo khoa học xuất bản trên mạng. Tên riêng này là một đường dẫn tồn tại lâu dài đến vị trí bài báo trên Internet.

TRÍCH DẪN VÀ CHÚ THÍCH TRONG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

1. Ý nghĩa của việc trích dẫn khoa học

Việc sưu tầm tài liệu và sử dụng chúng trong quá trình biên khảo, nghiên cứu một đề tài khoa học là công việc rất bình thường của nhà khoa học. Tuy nhiên, để tránh rơi vào lỗi đạo văn, khi sử dụng kết quả nghiên cứu, những ý tưởng, luận điểm hoặc quan điểm khoa học,… từ các công trình khoa học của tác giả khác hoặc của chính bản thân mình đã được công bố trước đó để làm luận cứ cho việc chứng minh một luận điểm mới hoặc để phân tích những điểm yếu, thậm chí bác bỏ khi phát hiện những sai lầm của các công trình nghiên cứu trước đó, người nghiên cứu phải có trách nhiệm ghi xuất xứ của tài liệu đã trích dẫn một cách rõ ràng. Không trích dẫn những kiến thức phổ biến, mọi người đều biết[1].

Cụ thể, những trường hợp cần ghi trích dẫn bao gồm:

Trích dẫn nguyên văn của một tác giả hay của chính mình đã từng công bố trước đây.

Khi đề cập đến một phát biểu, hay tóm lược ý kiến của một người khác làm nền tảng cho công trình của mình. Thông thường những phát biểu mang tính ngoại lệ, có thể gây ngạc nhiên.

Những phát biểu có kèm theo con số, đề cập đến dữ liệu hay phát hiện của người khác[2].

Theo quy chế đào tạo tiến sĩ, “luận án tiến sĩ phải đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được quy định tại Luật sở hữu trí tuệ. Việc sử dụng hoặc trích dẫn kết quả nghiên cứu của người khác, của đồng tác giả phải được dẫn nguồn đầy đủ và rõ ràng”[3]. Mọi ý kiến, khái niệm có ý nghĩa, mang tính chất gợi ý không phải của riêng tác giả và mọi tham khảo khác phải được trích dẫn và chỉ rõ nguồn trong danh mục Tài liệu tham khảo của công trình nghiên cứu.

Theo Vũ Cao Đàm, việc trích dẫn khoa học có các ý nghĩa sau:

Thứ nhất, việc viết đầy đủ, rõ ràng xuất xứ của trích dẫn khoa học là sự thể hiện tính chuẩn xác, trung thực của người trích dẫn. Nó giúp người đọc dễ dàng tra cứu lại các nguồn tài liệu gốc, các công bố khoa học mà tác giả đã trích dẫn.

Thứ hai, với một trích dẫn khoa học ghi rõ ràng, đầy đủ thông tin nguồn trích dẫn thì người đọc (đồng nghiệp) biết rõ về nguồn gốc của những luận điểm, nhận định được trích dẫn.

Thứ ba, viết đúng trích dẫn khoa học là sự thể hiện ý thức tôn trọng pháp luật về quyền tác giả. Nếu không ghi trích dẫn đầy đủ hoặc ghi sai, người làm khoa học hoàn toàn có thể bị tác giả nguồn trích dẫn kiện và bị xử lý theo quy định của pháp luật quyền tác giả và quyền sở hữu trí tuệ.

Thứ tư, việc viết đầy đủ, chính xác các nguồn trích dẫn khoa học là thể hiện sự tôn trọng, trung thực những cam kết về chuẩn mực đạo đức trong nghiên cứu khoa học[4].

Việc ghi rõ trích dẫn khoa học thể hiện tính chuẩn xác, khoa học của công trình nghiên cứu, sự tôn trọng những chuẩn mực đạo đức trong nghiên cứu khoa học của người nghiên cứu và đồng thời còn thể hiện ý thức tôn trọng pháp luật về quyền tác giả và buộc người đã nêu ra những luận điểm khoa học được trích dẫn phải chịu trách nhiệm về nội dung trong các công bố khoa học của mình, “những nghiên cứu khoa học dẫn nguồn càng chi tiết, càng tỉ mỉ càng chứng tỏ sự ngay thẳng, trung thực của người làm công tác nghiên cứu. Đó cũng là thái độ thể hiện sự trân trọng thành quả mà những người đi trước đã tạo dựng nên”[5]. Nhiều người không ý thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc trích dẫn trong nghiên cứu khoa học, nên đã cẩu thả hoặc vô ý bỏ qua việc trích dẫn, nhưng cũng có người biết rõ và cố tình vi phạm vì lợi ích của mình. Tuy nhiên, người nghiên cứu dù vô tình hay cố ý dẫn đến việc không trích dẫn nghiêm túc đều bị coi là đạo văn.

2. Các hình thức trích dẫn phổ biến

Trích dẫn trực tiếp: là trích dẫn nguyên văn một phần câu, một câu, một đoạn văn, hình ảnh, sơ đồ, quy trình,… của bản gốc vào bài viết. Trích dẫn nguyên văn phải bảo đảm đúng chính xác từng câu, từng chữ, từng dấu câu được sử dụng trong bản gốc được trích dẫn, phần trích dẫn được đặt trong ngoặc kép.

Trích dẫn gián tiếp hay trích dẫn diễn giải: là sử dụng ý tưởng, kết quả, hoặc ý của một vấn đề để diễn tả lại theo cách viết của mình nhưng phải đảm bảo đúng nội dung của bản gốc. Khi trích dẫn theo cách này cần cẩn trọng và chính xác để tránh diễn dịch sai, đảm bảo trung thành với nội dung của bài gốc.

Trích dẫn thứ cấp: là khi người viết không có điều kiện tiếp cận được tác phẩm gốc mà phải trích dẫn thông qua tác phẩm khác. Khi trích dẫn theo cách này phải nêu rõ cách trích dẫn này dưới dạng “trích theo”, “dẫn lại”,… và không liệt kê tài liệu trích dẫn của tác giả của tác phẩm gốc trong danh mục tài liệu tham khảo. Một tài liệu có yêu cầu khoa học càng cao thì càng hạn chế trích dẫn thứ cấp mà phải tiếp cận càng nhiều tài liệu gốc càng tốt.

Hiện nay, có nhiều cách lập trích dẫn và danh mục tài liệu tham khảo khác nhau đang được áp dụng, trong đó sử dụng phổ biến là: Kiểu trích dẫn theo chuẩn APA (American Psychological Association) đối với nhóm ngành Khoa học giáo dục, khoa học xã hội và nhân văn; kiểu trích dẫn theo chuẩn IEEE (Institute of Electrical and Electronics Engineers) và kiểu trích dẫn trong luận văn, luận án theo quy định năm 2000 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

3. Chú thích trong công trình khoa học

Chú thích trong các công trình khoa học hay còn được gọi là cước chú, hậu chú, đó là phần giải thích, phụ chú, dẫn chứng, đánh giá hay lời nhận định được trình bày ở cuối mỗi trang hoặc cuối bài nghiên cứu, luận văn, luận án và sách. Phần chú thích đi kèm phần chính văn, có tác dụng thuyết minh, thuyết giải, bổ sung, mở rộng thêm thông tin giúp làm rõ hơn nội dung trong chính văn, giúp người đọc dễ hiểu hơn nhưng vẫn đảm bảo tính mạch lạc, ngắn gọn của chính văn. Nếu chú thích được đặt ở cuối trang thì gọi là “cước chú” (footnotes) và đặt ở cuối nội dung chính của bài báo, chương hoặc cuối sách thì gọi là “hậu chú” (endnotes).

Trong Lôgích học & phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Lê Tử Thành quan niệm: “Theo từ nguyên, cước là chân, chú là chép nghĩa cho rõ ràng. Cước chú (foot notes, notes aubas de la page) là những giải thích, dẫn chứng ghi ở cuối mỗi trang, cuối mỗi chương hay cuối cả phần chính của công trình nghiên cứu, để giúp người đọc biết rõ xuất xứ một đoạn văn, một ý kiến, một tin tức hoặc để giải thích một chữ, một ý… được dùng trong bài”[6].

Theo Bùi Trọng Ngoãn:

“Chú thích” là lời ghi thêm, bổ sung thông tin cho phần chính văn. Thông tin đó có thể là một lời diễn giải hay một chỉ dẫn nào đó của người viết nhằm thuyết minh thêm cho nội dung đang trình bày.

Về mặt nội dung thể hiện, chú thích có các dạng: diễn giải làm rõ hơn nội dung cần thông tin; biện luận kiến giải về vấn đề, chứng minh thêm cho vấn đề đang nói, nêu nguồn tư liệu được kê cứu, xuất xứ nguồn dẫn, nêu chỉ dẫn của người viết… Nói chung, chú thích có chức năng bổ sung thông tin mà phần chính văn chưa thể xử lí hết[7].

Những nội dung chú thích thường thấy trong các công trình khoa học gồm có: chú thích có tính chất bổ sung thông tin liên quan đến đối tượng được đề cập đến trong chính văn, giải thích từ ngữ, bình luận, cung cấp thêm minh chứng, chỉ dẫn người đọc tham khảo thêm thông tin từ các nguồn khác.

Ví dụ 1: Khi trình bày về việc ra đời của Đảng Thanh niên, tác giả chú thích  nhằm bổ sung thêm thông tin về tên gọi của Đảng này: “Việc thành lập Đảng Thanh niên[8] diễn ra một cách bộc phát, gần như không có quá trình chuẩn bị. Chính vì vậy, bộ máy tổ chức của Đảng, chủ trương chính trị, điều lệ, nguyên tắc hoạt động, kết nạp đảng viên,… khá tùy tiện, thiếu chặt chẽ”[9].

Ví dụ 2: khi trích dẫn Đại Việt sử kí toàn thư, tác giả dùng chú thích để giải thích khái niệm “tứ phối” trong đoạn trích nhằm giúp người đọc hiểu được khái niệm này khi đọc trong chính văn:

Đến thời Lý, Nho giáo bắt đầu được chú trng hơn, Đại Vit s ký toàn thư cho biết: Văn Miếu ở Việt Nam được xây dựng ở Kinh đô Thăng Long từ năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072). Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ 2 (1070) đời Lý Thánh Tông, mùa Thu, tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối[12], vẽ tranh thất thập nhị hiền, bốn mùa thờ cúng”[13].

Qua một số ví dụ trên cho thấy, việc chú thích trong công trình khoa học là việc làm cần thiết, giúp người viết trình bày vấn đề khoa học trong chính văn một cách cô đọng, ngắn gọn nhất nhưng người đọc vẫn dễ dàng nắm bắt được chính xác về đối tượng nghiên cứu được đề cập đến trong công trình khoa học.

Để các chú thích phát huy hết giá trị đối với người đọc, người viết phải chọn lọc thông tin, chú thích phải chính xác, rõ ràng, dễ hiểu và vừa đủ để giúp người đọc nắm vững vấn đề đang trình bày. Các khái niệm, thuật ngữ hoặc thông tin có tính chất phổ thông hoặc không liên quan nhiều đến nội dung đang trình bày thì không cần chú thích, tránh lạm dụng chú thích để khoe hiểu biết của người viết làm cho công trình khoa học trở nên nặng nề, rườm ra không cần thiết.

(Nguồn: Giáo trình PPNCKHLS, NXB ĐHQG)


[1] Theo Nguyễn Văn Tuấn (2011), kiến thức thông thường là thông tin được tìm thấy trong nhiều nơi và nhiều người biết đến.

[2] Nguyễn Văn Tuấn. (2011). Đi vào nghiên cứu khoa học. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh – Thời báo Kinh tế Sài Gòn. tr.176.

[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2009). Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ (Ban hành kèm Thông tư số 10/2009/TT-BGDĐT, ngày 07/5/2009). Hà Nội.

[4] Vũ Cao Đàm. (2012). Bài giảng môn học Phương pháp nghiên cứu khoa học. Hà Nội: Tài liệu lưu hành nội bộ. tr. 41.

[5] Nguyễn Thị Nga - Hoàng Thu Trang. (2019). Thực hiện liêm chính trong nghiên cứu khoa học tại Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp. Nguồn: https://tuyengiao.vn/khoa-giao/khoa-hoc/thuc-hien-liem-chinh-trong-nghien-cuu-khoa-hoc-tai-viet-nam-hien-nay-thuc-trang-va-giai-phap-125597.

[6] Lê Tử Thành. (1991). Lôgích học & phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ. tr.101-102.

[7] Bùi Trọng Ngoãn. (2016). Khái niệm chú thích và cách chú thích trong các công trình khoa học xã hội. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, Số 10(107)/2016. tr. 1-6.

[8] Về tên của Đảng Thanh niên, Trần Huy Liệu cho biết là lúc thống nhất lập đảng thì gọi là Đảng Thanh niên, Trên Đông Pháp thời báo và nhiều tài liệu cũng ghi là Đảng Thanh niên, nhưng trong đám tang cụ Phan Châu Trinh thì ghi là Đảng Thanh niên Việt Nam và nhiều tài liệu ghi tên tiếng Pháp của Đảng là “Party Jeune Annam”.

[9] Phạm Phúc Vĩnh. (2021). Bối cảnh ra đời và hoạt động của Đảng Thanh Niên ở Nam Kỳ (1926-1927). Tạp chí  khoa học Đại học Sài Gòn, Số 76 (4/2021). tr. 52.

[10] Trong hồi kí, Trần Huy Liệu cho biết, trong nhiều buổi gặp mặt quần chúng do Đảng Lập hiến tổ chức, Bùi Quang Chiêu chạm trán với nhóm lãnh đạo của Đảng Thanh niên và bị chất vấn về việc Nguyễn An Ninh bị bắt giam ở Khám Lớn, Bùi Quang Chiêu chỉ trả lời buông xuôi là: Việc của ông Ninh là một việc chính trị, sao can thiệp được.

[11] Phạm Phúc Vĩnh. (2021). Bối cảnh ra đời và hoạt động của Đảng Thanh Niên ở Nam Kỳ (1926-1927). Tạp chí  khoa học Đại học Sài Gòn, Số 76 (4/2021). tr. 54.

[12] Tứ phối: Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử.

[13] Ngô Sĩ Liên. (1993). Đại việt sử kí toàn thư, Tập 1. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội. tr.275.

NHỮNG HÀNH VI BỊ NGHIÊM CẤM TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

1. Đạo văn (plagiarism)

a) Định nghĩa đạo văn

Đạo văn (plariagism) là một hình thức gian lận khoa học khá phổ biến trong nghiên cứu khoa học, nhất là trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Trong thời gian gần đây, nhiều sự kiện liên quan đến nạn đạo văn (tranh chấp bản quyền tác giả, sao chép luận văn, luận án và công trình khoa học,…) ở Việt Nam bị phát hiện và công bố trên các phương tiện truyền thông[1]. Vậy thế nào là đạo văn?.

Theo Nguyễn Văn Tuấn, đạo văn (plariagism) là:

Sử dụng ý tưởng hay câu văn của người khác không thích hợp (tức không ghi rõ nguồn gốc), đặc biệt là việc trình bày ý tưởng và từ ngữ của người khác trước các diễn đàn khoa học và công cộng như là ý tưởng và từ ngữ của mình. Ở đây, “ý tưởng và từ ngữ của người khác” có nghĩa là: sử dụng công trình hay tác phẩm của người khác, lấy ý tưởng của người khác, sao chép nguyên bản từ ngữ của người khác mà không ghi nguồn, sử dụng cấu trúc và cách lí giải của người khác mà không ghi nhận họ và lấy những thông tin chuyên ngành mà không để rõ nguồn gốc[2].

Ngoài ra, một hình thức nữa cũng được xem là đạo văn, đó là “lấy ý tưởng của người khác nhưng viết lại câu văn mà không ghi nguồn; mua luận văn, luận án từ chợ luận văn, luận án trên Internet”[3].

Theo quy định của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, đạo văn “là việc sử dụng các câu văn, đoạn văn, thông tin, số liệu, hình ảnh, video, ý tưởng, từ công trình nghiên cứu của người khác đưa vào công trình nghiên cứu của mình mà không chỉ dẫn, chỉ dẫn không chính xác nguồn tác phẩm được trích dẫn, hoặc có ghi trích dẫn nguồn gốc tác phẩm được trích dẫn nhưng không tuân thủ đúng quy định”[4].

Bên cạnh hiện tượng đạo văn, các nhà khoa học còn chỉ ra một hình thức gian lận khoa học khác đó chính là tự đạo văn, nghĩa là “tác giả công bố một bài báo khoa học như là một công trình nghiên mới, nhưng thật chất là “xào nấu” dữ liệu của nghiên cứu cũ mà mình đã công bố trước đây”[5].

b) Các hình thức của đạo văn

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh quy định về các hình thức cảu đạo văn như sau:

- Sử dụng đoạn văn, thông tin, hình ảnh từ tác phẩm của người khác đưa vào tác phầm của mình mà không chỉ dẫn nguồn gốc tác phẩm được trích dẫn, hoặc có chỉ dẫn nguồn gốc tác phẩm nhưng không đúng quy định trong quy định này.

- Sử dụng một phần hoặc toàn bộ công trình nghiên cứu của người khác để hình thành công trình nghiên cứu của mình với chỉ số trùng lặp hỗn hợp trên 20% (bao gồm cả trường hợp thực hiện đúng quy định về trích dẫn). Quy định này không áp dụng đối 5 với các trường hợp cần phải trích dẫn các đối tượng nghiên cứu để binh luận, phân tích, minh họa cho tác phẩm.

- Diễn giải, hoặc tóm tắt đoạn văn, nội dung trong công trình nghiên cứu của người khác bằng ngôn ngữ của mình mà không trích dẫn nguồn được sử dụng.

- Tự đạo văn là việc sử dụng những sản phẩm học thuật của mình đã công bố để tạo thành công trình nghiên cứu mới do mình là tác giả hoặc đồng tác giả, trong đó chỉ số trùng lặp hỗn hợp khi kiểm tra bằng phần mềm trên 25%.

- Chiếm đoạt công trình nghiên cứu của người khác và trình bày như công trình nghiên cứu của mình a) Lấy toàn bộ tác phẩm của người khác và công bố là tác phẩm của mình, bao gồm cả các trường hợp thuê viết hoặc nhờ người viết hộ; b) Dịch hoặc diễn đạt toàn bộ hoặc một phần một công trình nghiên cứu từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc ngược lại để tạo thành công trình nghiên cứu của mình với tỷ lệ được quy định[6].

Trong Quy định về trích dẫn và chống đạo văn của Trường Đại học KHXH&NV – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh xác định các hình thức đạo văn như sau:

- Sử dụng đoạn văn, thông tin, số liệu, hình ảnh từ tác phẩm của người khác đưa vào tác phẩm của mình mà không chỉ dẫn đầy đủ nguồn gốc tác phẩm được trích dẫn.

- Cung cấp không chính xác về tác giả, nguồn của thông tin được trích dẫn.

- Không dẫn nguồn nội dung của tác giả đã trích khi thay đổi, di chuyển từ ngữ, câu, đoạn, ý tưởng của người khác; gắn từ ngữ, câu, đoạn của các nguồn khác nhau và chỉnh sửa lại trong bài viết; thay đổi từ ngữ, cụm từ câu nhưng vẫn giữ nguyên cấu trúc của đoạn văn hoặc bài viết.

- Diễn giải đoạn văn, nội dung trong tác phẩm của người khác bằng ngôn ngữ của mình hoặc tóm tắt nội dung các tác phẩm của người khác mà không dẫn nguồn tác phẩm được sử dụng.

- Trích dẫn một hoặc nhiều tác phẩm của người khác để hình thành tác phẩm của mình có dung lượng chiếm trên 25% nội dung tác phẩm, dù có thực hiện đúng quy định về trích dẫn nguồn.

- Chiếm đoạt tác phẩm của người khác và trình bày như tác phẩm của mình: a) Sao chép tác phẩm của người khác thành tác phẩm của mình, bao gồm cả các trường hợp thuê hoặc nhờ người khác viết hộ. b) Dịch hoặc diễn đạt toàn bộ hoặc một phần tác phẩm từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc ngược lại để tạo thành tác phẩm của mình mà không chỉ rõ nguồn thông tin về tác phẩm.

- Sử dụng những tác phẩm của mình đã công bố để tạo thành trên 30% dung lượng tác phẩm mới do mình là tác giả hoặc đồng tác giả là hình thức tự đạo văn[7].

c) Các quy định xử lí vi phạm đạo văn

Trong nghiên cứu khoa học, lỗi đạo văn được xem lỗi vi phạm về đạo đức của nhà khoa học, đồng thời hành vi này còn vi phạm luật về sở hữu trí tuệ. Quy chế đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo và một số cơ sở đào tạo đại học ở Việt Nam như Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Hoa Sen, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đều có quy định về trích dẫn và chế tài xử phạt hành vi đạo văn của sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh, cụ thể như sau:

Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định: “Nếu sử dụng tài liệu của người khác (trích dẫn bảng, biểu, công thức, đồ thị cùng những tài liệu khác) mà không chú dẫn tác giả và nguồn tài liệu thì luận án không được duyệt để bảo vệ”[8].

Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh quy định: “Nếu tiểu luận, luận văn, luận án của sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh bị phát hiện đạo văn, tùy thời điểm bị phát hiện, mức độ vi phạm sẽ bị xử lí từ hình thức bắt chỉnh sửa lại mới cho bảo vệ (phát hiện trước khi bảo vệ), đình chỉ bảo vệ, buộc phải chỉnh sửa lại (phát hiện trong khi bảo vệ) và hủy kết quả (phát hiện sau khi bảo vệ, chưa được cấp bằng) và thu hồi văn bằng đã cấp (phát hiện sau khi bảo vệ, đã được cấp bằng)”[9].

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh căn cứ tính chất, mức độ đạo văn, hậu quả của hành vi vi phạm, tác giả sản phẩm học thuật có thể bị xử lý theo các hình thức sau đây: “Yêu cầu chỉnh sửa; Không được bảo vệ, nghiệm thu;  Thu hồi sản phẩm học thuật nếu đã công bố; Đình chỉ học tập có thời hạn; Buộc thôi học; Thu hồi văn bằng. Các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật”[10].

Khi công trình khoa học bị phát hiện đạo văn (dù cố tình hay vô ý), các cơ quan quản lí, các cơ sở đào tạo sẽ có những biện pháp xử lí thích đáng và đặc biệt nghiêm trọng hơn là tác giả sẽ bị cộng đồng khoa học và xã hội lên án, tẩy chay. Chính vì vậy, các nhà nghiên cứu, đặc biệt là sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh cần chú ý đến việc ghi rõ nguồn trích dẫn để tránh lỗi đạo văn khi thực hiện đề tài.

2. Ngụy tạo dữ liệu (data fabrication)

Cùng với đạo văn (plagiarism), ngụy tạo dữ liệu (data fabrication) hay còn gọi “bịa đặt” là những hành vi vi phạm đạo đức nghiên cứu khoa học nghiêm trọng, nó đi ngược lại với sự trung thực, ngay thẳng trong nghiên cứu khoa học. Trong những hành vi này thì ngụy tạo dữ liệu thường gây hậu quả lớn hơn rất nhiều so với đạo văn.

Ngụy tạo dữ liệu hay “bịa đặt ” trong nghiên cứu khoa học được xem là hành vi “làm giả, bóp méo hoặc bịa ra bất kỳ thông tin hoặc trích dẫn nào trong nghiên cứu khoa học để phục vụ cho mục đích hay ý muốn chủ quan nào đó của người nghiên cứu”[11].

Quy định về liêm chính học thuật tại Trường Đại học Hoa Sen xác định: “Bịa đặt” trong nghiên cứu khoa học nằm trong định nghĩa chung về “bịa đặt” trong học thuật, đó là: “hành vi cố ý làm sai lệch hoặc bịa ra bất kỳ thông tin hay trích dẫn nào trong bất kỳ hoạt động học thuật nào”, bao gồm ít nhất các biểu hiện cụ thể, như “sử dụng thông tin bịa đặt trong thí nghiệm, nghiên cứu, báo cáo thực tập hay các hoạt động học thuật khác; trích dẫn không đúng người sử dụng (ví dụ, trích dẫn thông tin từ một bài điểm sách nhưng trình bày như thể là thông tin lấy từ sách gốc)”[12].

Những nghiên cứu khoa học dựa trên những thông tin bị “làm giả, bóp méo” không dựa trên cơ sở sự thật sẽ vô cùng nguy hiểm khi nó cung cấp cho xã cái nhìn không đúng đắn về một vấn đề khoa học, nhất là khi sự bịa đặt này lại phục vụ cho mục đích xấu của bản thân người nghiên cứu. Điều nguy hiểm là rất nhiều trong các con số mà tác giả lấy cắp có thể bị chỉnh sửa một cách tùy tiện, và nếu áp dụng kết quả nghiên cứu bịa đặt này vào thực tiễn thì nhiều nguy cơ sẽ dẫn tới hậu quả khôn lường...

Trong khi đạo văn chủ yếu ảnh hưởng tới uy tín của cá nhân nhà khoa học đó thì việc ngụy tạo dữ liệu không chỉ dẫn tới kết luận sai cho chính nghiên cứu đó mà nó có thể được trích dẫn, tạo ra hiệu ứng ảnh hưởng tới các nghiên cứu sau đó hoặc thậm chí là đưa ra khuyến nghị và hành động chính sách sai. Đặc biệt, đối với những nghiên cứu được kết luận dựa trên điều tra xã hội học làm cơ sở để hoạch định các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nếu xuất hiện yếu tố làm giả, hoặc bóp méo số liệu điều tra, từ đó đưa ra những kết luận sai lệch so với thực tế sẽ để lại hậu quả rất nghiêm trọng. Đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước sẽ khó có thể đi vào cuộc sống và được người dân đón nhận bởi nó không xuất phát từ thực tiễn và không phù hợp với thực tiễn...

Hành vi bịa đặt trong học thuật có thể là người học (học sinh, sinh viên, học viên) và cả người làm công tác nghiên cứu. Trên thực tế, hành vi này đã từng được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu có uy tín, ví dụ như vụ bịa đặt trong nghiên cứu tế bào gốc của một nhà khoa học nổi tiếng Hàn Quốc là tiến sĩ Hwang Woosuk vào năm 2005[13].

Như vậy, có thể thấy, những biểu hiện vi phạm tính liêm chính trong nghiên cứu khoa học, như “đạo văn”, “bịa đặt” gây ra những hậu quả rất lớn đối với việc phát triển nghiên cứu khoa học, cản trở khoa học phát triển, đi ngược lại mục đích của khoa học. Việc “đạo văn”, “bịa đặt” khiến phần lớn các nhà nghiên cứu chỉ quẩn quanh tìm mọi cách biến công trình nghiên cứu, ý tưởng nghiên cứu của người khác thành của mình thay vì tập trung tìm những hướng đi mới, những hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu khoa học. Đảm bảo sự liêm chính và trung thực trong nghiên cứu là một bước quan trọng để nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và nâng cao uy tín khoa học của nước nhà.
(Trích từ: Giáo trình PPNCKHLS, NXB ĐHQG TP.HCM, 2023).


[1] Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã ra quyết định hủy bỏ kết quả chấm luận văn và thu hồi bằng thạc sĩ số 00443/71KH2 của học viên NTMT, chuyên ngành Giảng dạy tiếng Anh, khóa 2002-2005. Vào năm 2006, học viên NTMT bảo vệ luận văn thạc sĩ, sau đó được cấp bằng thạc sĩ số 00443/71KH2. Khi tham khảo luận văn của Nguyễn Thị Minh Tâm lưu trữ tại thư viện Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, một cá nhân phát hiện luận văn này phần lớn được sao chép từ luận văn của một người đã bảo vệ thành công trước đó, liền báo cho lãnh đạo nhà trường. Trường đã lập hội đồng thẩm định và kết luận học viên NTMT đã có hành vi sao chép luận văn, vi phạm quy chế đào tạo sau đại học của ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh [Báo Người Lao động, Thứ Ba, 23/08/2011].

[2] Nguyễn Văn Tuấn. (2011). Đi vào nghiên cứu khoa học. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh – Thời báo Kinh tế Sài Gòn. tr. 111.

[3] Báo Sinh viên Việt Nam, ngày 15/06/2012.

[4] Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh. (2021). Quy định trích dẫn và kiểm tra đạo văn đối với các sản phẩm học thuật tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh. tr.1-2.

[5] Nguyễn Văn Tuấn. (2011). Đi vào nghiên cứu khoa học. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh – Thời báo Kinh tế Sài Gòn. tr. 111.

[6] Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh. (2021). Tlđd. tr.4-5.

[7] Quyết định số 02/QĐ-XHNV-TTPC-SHTT ngày 19 tháng 01 năm 2018 của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

[8] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2009). Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ (Ban hành kèm Thông tư số 10/2009/TT-BGDĐT, ngày 07/5/2009). Hà Nội.

[9] Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh. (2013). Quy định hình thức xử lí đạo văn (Công văn số 3151/QyĐ-ĐHKT-VSĐH, ngày 31/10/2013 của Trưởng Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh). Thành phố Hồ Chí Minh. tr. 1-2.

[10] Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh. (2021). Tlđd. tr.5-6.

[11]  Nguyễn Thị Nga, Hoàng Thu Trang.  (2019). Thực hiện liêm chính trong nghiên cứu khoa học tại Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp. nguồn: https://tuyengiao.vn/khoa-giao/khoa-hoc/thuc-hien-liem-chinh-trong-nghien-cuu-khoa-hoc-tai-viet-nam-hien-nay-thuc-trang-va-giai-phap-125597.

[12] Trường Đại học Hoa Sen. (2013). Quy định về liêm chính học thuật (Ban hành theo Quyết định số 1741/QĐ-BGH, ngày 28-10-2013, của Hiệu trưởng Trường Đại học Hoa Sen). nguồn: http://www.sinhvien.hoasen.edu.vn/sites/default/files/2013/10/user30/quyet_dinh_1741_ban_hanh _quy_dinh ve_liem_chinh_hoc_thuat.pdf .

[13] Giáo sư Hàn Quốc giả nghiên cứu tế bào gốc. Tienphong Online, ngày 17/12/2005. Nguồn:  https://www.tienphong.vn/cong-nghe-khoa-hoc/giao-su-han-quocnbspgia-nghien-cuu-te-bao-goc-32138.tpo. truy cập ngày 3/12/2017.